A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Nhìn lại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội năm 2023: Nhận diện bối cảnh trong nước và quốc tế

Theo dự kiến chương trình phiên họp thứ 27 (tháng 10/2023), Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về đánh giá kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2023, dự kiến Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2024; đánh giá giữa nhiệm kỳ về kết quả triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm (2021-2025) trước khi trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6. Trước đó, tại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2023, các đại biểu đã đưa ra những dự báo trong bối cảnh tình hình kinh tế, tài chính khu vực, thế giới, cơ hội, rủi ro, thách thức đối với Việt Nam cho cả năm 2023, 2024 và giai đoạn tiếp theo.

Thế giới đối mặt với nhiều bất thường và rủi ro hơn

Tại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2023, các đại biểu đều thống nhất đánh giá tình hình thế giới mặc dù có một số tín hiệu tích cực, nhưng về tổng thể kinh tế toàn cầu chưa ra khỏi giai đoạn khó khăn, có tính bất định cao, diễn biến phức tạp, nhanh chóng cùng nhiều yếu tố mới, bất ngờ, xuất hiện các rủi ro trong cả ngắn hạn và dài hạn (bất thường hơn, bấp bênh hơn và rủi ro hơn, điều mà giới kinh doanh vẫn gọi là thế giới VUCA). 

Toàn cảnh Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2023

Sau đại dịch COVID-19, trên con đường hồi phục, hầu hết các nền kinh tế thế giới lại phải gặp thách thức lớn khác là sự bùng nổ của giá cả hàng hoá và năng lượng. Sự nới lỏng tiền tệ chưa từng có trong giai đoạn 2020-2021 cộng hưởng tác động từ cuộc xung đột Nga – Ukraine đã kích hoạt lạm phát trên quy mô toàn cầu kể từ cuối năm 2022. Để đối phó, hầu hết các ngân hàng Trung ương lớn trên thế giới đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất liên tục, kéo dài suốt hơn 01 năm qua. Đồng thời, nhiều nước cũng đã phải giảm bớt, thu hồi các gói hỗ trợ tài khoá do thâm hụt ngân sách tăng cao và nợ công “đụng trần”.

Các động lực tăng trưởng truyền thống của kinh tế thế giới như thương mại, đầu tư, sản xuất tiếp tục khó khăn. Các nền kinh tế lớn, đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của nước ta phục hồi chậm, thiếu bền vững, tăng trưởng thấp trong khi cầu tiêu dùng còn yếu, hàng rào bảo hộ gia tăng. Đến nay, lạm phát đã có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng vẫn duy trì ở mức cao, dẫn tới xu hướng thắt chặt tiền tệ tiếp diễn ở nhiều nền kinh tế lớn, gây áp lực tỷ giá đối với đồng nội tệ, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu; làm tăng chi phí tài chính, dẫn tới nguy cơ dòng vốn chảy ra ngoài như đã thấy ở nhiều thị trường mới nổi trong khu vực. Nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp, các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Diễn biến hiện nay cho thấy rủi ro của hệ thống ngân hàng ngày càng gắn kết chặt chẽ với rủi ro của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, thị trường chứng khoán và bất động sản. Xuất hiện một số rủi ro, thách thức mới về an ninh lương thực, an ninh năng lượng toàn cầu do tác động của một số chính sách hạn chế xuất khẩu, bất ổn địa chính trị. Biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thiên tai, bão lũ, hạn hán diễn biến khó lường, khắc nghiệt hơn, phạm vi rộng, ảnh hưởng nặng nề đến các quốc gia, khu vực. Tăng trưởng GDP toàn cầu dự báo giảm từ mức 3,5% trong năm 2022 xuống mức 3% (IMF, tháng 7/2023) hoặc 2,7-2,9% (OECD, tháng 6/2023) trong các năm 2023 và 2024.

Công cuộc chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đang là xu thế phát triển trên thế giới, mở ra cơ hội cho các nước 

Bên cạnh đó, trong phát triển kinh tế thế giới, công cuộc chuyển đổi số và chuyển đổi xanh hay chuyển đổi năng lượng trên thế giới là vấn đề được đề cập nhiều và đang diễn ra rất mạnh mẽ, khẩn trương, gấp rút. Các nước phát triển tăng cường thiết lập các “tiêu chuẩn”, quy phạm pháp luật cho kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải các-bon, nhất là việc triển khai áp dụng thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu, thí điểm thuế các-bon,..., hay các cam kết tài chính cho phát triển, tài chính khí hậu, tài chính xanh. Các quy định nêu trên đặt ra những nguyên tắc chưa có tiền lệ trong thương mại và đầu tư quốc tế, tạo sức ép thực thi và tác động đến khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển; mang lại cơ hội và thách thức lớn.

Mặc dù đầu tư quốc tế nói chung bị suy giảm nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực chuyển đổi năng lượng có xu hướng gia tăng mạnh và là lĩnh vực đầu tư có mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2015-2023. Điều này cho thấy các nhà đầu tư coi chuyển đổi năng lượng (năng lượng tái tạo, cơ sở hạ tầng năng lượng, các công nghệ sạch và phát thải thấp) là chiến lược dài hạn, là xu thế chuyển đổi bắt buộc để thích ứng với các tiêu chuẩn mới về giảm phát thải.

Việc các nước lớn hiện nay ưu tiên ổn định kinh tế, phát huy nội lực, tăng cường năng lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao khả năng tự chủ chiến lược và bảo đảm an ninh kinh tế. Mỹ, EU, Ấn độ, Nhật Bản ban hành nhiều chính sách nhằm hỗ trợ sản xuất trong các lĩnh vực mới và công nghiệp trọng yếu. Chuỗi cung ứng đang được tái định hình nhằm đa dạng hóa, hạn chế rủi ro phụ thuộc vào một thị trường, đối tác. Hợp tác về chuỗi cung ứng trong một số lĩnh vực then chốt (bán dẫn, khoáng sản, hydro, pin xe điện,...) có chuyển biến nhanh, nổi bật là các dự án xây dựng nhà máy bán dẫn tại Mỹ, Đức, Nhật Bản,..., tạo ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển tham gia.

Việt Nam nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô trong thời gian dài

Ở trong nước, Quốc hội, Chính phủ ban hành và tổ chức triển khai thực hiện các chính sách, giải pháp quyết liệt, kịp thời, sát thực tế, chưa từng có tiền lệ trong suốt 2,5 năm qua từ sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Nền kinh tế Việt Nam đã đứng vững, cơ bản vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, được quốc tế và trong nước ghi nhận, định vị tín nhiệm và vị thế quốc tế được cải thiện.

Các diễn giả, chuyên gia trong nước, quốc tế đều đánh giá cao môi trường chính trị - kinh tế - xã hội ổn định của Việt Nam. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm, tỷ lệ về nợ công, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách đều dưới ngưỡng cho phép, nợ xấu được kiểm soát. Nền kinh tế vẫn duy trì được đà tăng trưởng và vẫn là một “điểm sáng” trong “bức tranh màu xám” của nền kinh tế toàn cầu. Cùng với tăng trưởng 8,02% trong năm 2022, quy mô GDP theo giá hiện hành của Việt Nam đứng thứ 38 thế giới, nếu tính theo sức mua tương đương PPP, đứng thứ 10 Châu Á và thứ 24 thế giới (theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)). Quy mô ngoại thương năm 2022 đạt gần 735 tỷ USD, thu hút đầu tư FDI lũy kế đạt gần 450 tỷ USD từ 143 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Tuy nhiên, từ Quý IV/2022, kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại, rất khó đạt chỉ tiêu cả năm 2023 là khoảng 6,5% theo Nghị quyết của Quốc hội. Ngoài nông nghiệp vẫn là “trụ đỡ”, các động lực tăng trưởng, “cỗ xe tam mã” là đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng đều khó khăn, tăng trưởng thấp, thậm chí đều gặp “trục trặc”, giảm tốc.

Các chuyên gia tham dự Diễn đàn

Điều đáng lưu ý là cả 3 động lực tăng trưởng hiện nay của nền kinh tế đã có dấu hiệu tới hạn do cấu trúc của nền kinh tế chưa được thay đổi căn bản. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Quý I tăng 13,9%, nhưng 6 tháng chỉ còn tăng 10,9%, 8 tháng tăng 10%, cho thấy tốc độ tăng đang chậm lại. Thương mại hàng hóa của Việt Nam đã liên tục suy giảm từ Quý IV/2022. Giá trị xuất khẩu và nhập khẩu lũy kế ước tính đến hết tháng 8/2023 vẫn giảm ở mức hai con số, lần lượt khoảng 9,8% và 15,9%. Thu hút FDI chưa thật sự bền vững; vốn đăng ký liên tục giảm trong 6 tháng đầu năm, từ tháng 7 vốn đăng ký tăng trở lại nhờ một số dự án lớn đầu tư vào năng lượng tái tạo, tuy nhiên tổng thể thu hút vốn FDI vẫn gặp nhiều thách thức.

Những hướng phát triển kinh tế mới có tính bền vững như chuyển đổi xanh, giảm thiểu thâm hụt năng lượng, phát thải các bon và kinh tế tuần hoàn chưa trở thành những lực lượng chính trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Các thị trường trong nước gặp khó

Bối cảnh thế giới và trong nước cũng đặt ra nhiều thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa và chính sách vĩ mô khác. Nền kinh tế khát vốn nhưng khó hấp thụ vốn, mặc dù mặt bằng lãi suất huy động và cho vay giảm xuống, dư nợ tín dụng đến 28/8/2023 chỉ tăng 5,16% (cùng kỳ 9,9%). Nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng nhưng hệ thống ngân hàng cũng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro về nợ xấu; tỷ lệ nợ xấu nội bảng hết tháng 6/2023 đã vượt mức 3% (3,36%) dù nhiều khoản nợ đã được gia hạn, giãn tiến độ trả nợ theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Tỷ giá đã có những biến động mạnh trong tháng 8/2023, đỉnh điểm có lúc VNĐ mất giá 2,3% so với đầu năm, đây là vấn đề cần quan tâm theo dõi, đặc biệt trong bối cảnh FED vẫn có khả năng tiếp tục tăng lãi suất và kéo dài chính sách tiền tệ thắt chặt.

Thị trường bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp còn khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thu ngân sách nhà nước giảm (giảm 8,8% so với cùng kỳ); giải ngân vốn đầu tư công có chuyển biến tăng cả về tổng giá trị và tỷ lệ giải ngân (42,35% so với 39,15% cùng kỳ) nhưng vẫn chậm so với yêu cầu.

Có ý kiến cho rằng chi đầu tư khó có thể đạt 90% dự toán, tình trạng “no dồn, đói góp” của chi đầu tư ít thay đổi; quy mô thu ngân sách có xu hướng thu hẹp so với giai đoạn trước có thể dẫn đến nguy cơ cán cân ngân sách mất cân đối nhiều hơn và rủi ro làm tăng vay nợ; vấn đề dự báo thu và chấp hành chi ngân sách cho đầu tư vẫn luôn là thách thức. Chuyên gia UNDP cho rằng nguồn lực của Việt Nam bị dàn trải, chia nhỏ cho các cơ quan, các địa phương dẫn đến có quá nhiều dự án quy mô nhỏ có mục tiêu bị trùng lặp, các dự án kiểu này “phù hợp” với quy mô doanh nghiệp nhỏ hơn là doanh nghiệp lớn; sự phối hợp giữa các bộ, ngành cũng như giữa trung ương và địa phương cũng là một vấn đề cần được cải thiện.

Doanh nghiệp tiếp tục đối mặt với khó khăn về thị trường, dòng tiền và thủ tục hành chính, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu, chi phí sản xuất tăng cao; sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước lỏng lẻo, thiếu gắn kết. Trong nước chưa có nhiều tập đoàn mạnh, quy mô lớn đóng vai trò đầu tàu, dẫn dắt, tổ chức các chuỗi cung ứng, hệ sinh thái sản xuất nội địa. Doanh nghiệp tư nhân trong nước chủ yếu có quy mô siêu nhỏ, công nghệ sản xuất thấp, phụ thuộc nhập khẩu đầu vào, tạo ra giá trị gia tăng thấp.

Công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa đáp ứng yêu cầu để thu hút các ngành công nghệ tiên tiến và thúc đẩy liên kết có hiệu quả. Công nghiệp hỗ trợ mới đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu trong nước, các sản phẩm chủ yếu là linh kiện và chi tiết đơn giản, có giá trị thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hóa của hầu hết các ngành công nghiệp đang ở mức thấp. Trong cả quá trình phát triển, các đại biểu cho rằng doanh nghiệp Việt Nam giỏi chống chịu, sống dai nhưng chậm lớn, khó trưởng thành.

Năng suất lao động có cải thiện nhưng chậm và chưa có đột phá như kỳ vọng, đang thấp hơn nhiều quốc gia châu Á. Nhiều đại biểu chỉ ra nguyên nhân năng suất lao động nước ta thấp chủ yếu do chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, thiếu hụt kỹ năng nghề; cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chưa hợp lý, chưa phát huy được vai trò chủ đạo của năng suất lao động nội ngành, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh còn hạn chế. Thị trường lao động gặp khó khăn khi doanh nghiệp phải giảm giờ làm, giảm lương, cắt giảm lao động... Có hiện tượng chuyển dịch lao động từ khu vực công sang khu vực khác. Còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện chính sách cho người lao động (như xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân (thiếu quỹ đất; tiếp cận vốn khó khăn, nhất là với các nguồn vốn ưu đãi; quy trình thủ tục rườm rà, kéo dài…); tình trạng người lao động rút bảo hiểm xã hội một lần gia tăng. 

Các tổ chức quốc tế hạ dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023 

Thời gian qua, công tác xây dựng và thi hành pháp luật đã có nhiều cải thiện, quyết liệt rà soát, khắc phục những vướng mắc, mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật để tháo gỡ, khơi thông các “điểm nghẽn”, phát huy mọi nguồn lực, biến thách thức thành cơ hội cho phát triển. Để giải quyết căn cơ những bất cập của cơ chế, chính sách, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã giao Chính phủ chủ trì tổ chức rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, xác định cụ thể những quy định chưa rõ ràng, có mâu thuẫn, chồng chéo, sơ hở, bất cập, những vấn đề vướng mắc trong các luật, nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn.

Tuy nhiên, đến nay vẫn còn một số cơ chế, chính sách, quy định pháp luật chậm được sửa đổi; còn tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, áp dụng thiếu thống nhất một số quy định pháp luật; phân cấp, phân quyền còn vướng mắc. Thủ tục hành chính tuy đã được cắt giảm nhưng trong một số lĩnh vực vẫn còn rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Tình trạng đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ dẫn đến sự trì trệ, kém hiệu quả trong giải quyết công việc, gây bức xúc trong xã hội.

Trong bối cảnh đối diện với nhiều khó khăn, các tổ chức quốc tế tuy hạ dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2023 song tiếp tục đánh giá lạc quan về tiềm năng, triển vọng tăng trưởng trong trung và dài hạn. Gần đây nhất, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) hạ dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2023 xuống mức 5,8% và 5,2% (dự báo trước là 6,5% và 6,6%), vẫn nằm trong nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực.

Tại Diễn đàn, chuyên gia của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) hạ dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của Việt Nam xuống 4,9%, nhưng dự kiến sẽ tăng lên 5,9% vào năm 2024. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Ratings đánh giá Việt Nam thuộc nhóm 3 nền kinh tế dẫn đầu (cùng với Ấn Độ và Philippines) tăng trưởng nhanh nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương với mức trung bình giai đoạn 2023-2026 là 6,6%.

Những phân tích trên có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu, hoạch định các chủ trương, chính sách, định hướng về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, là thông tin tham khảo để chuẩn bị kỹ lưỡng hơn cho các nội dung sẽ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội cho ý kiến, nhất là về đánh giá kết quả thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, trong đó có Nghị quyết  phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2023 tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XV vào tháng 10 tới đây.


Nguồn:Theo Cổng Thông tin điện tử Quốc hội Sao chép liên kết